Trạm kế tiếp: Quảng trường Bành Thành
Chương 48: Vịt vàng nhỏ và ăn chực cỗ
Mọi chuyện tiếp theo diễn ra thuận lợi như một lẽ tự nhiên. Từ Lương tìm thấy chứng nhận gửi tro cốt của Đại cô trong di vật của Nhị cô. Không biết vì lý do gì, sau khi Đại cô qua đời, bà vẫn chưa được hạ huyệt bình yên. Có lẽ là ý trời, muốn chờ hậu bối đến lo liệu vẹn toàn chuyện này.
eyJzIjoxNiwiYyI6MTExMSwidSI6Imd1ZXN0IiwidCI6MTc2NzE5NjAwOCwiciI6IllBVFVqVXYzIn0=Từ Lương và Lý Khả Kiện, mỗi người một mảnh ký ức, đã ghép lại thành câu chuyện tình yêu giữa Từ Chiêu Địch và Bành Tú Chương. Không có sự oanh liệt chấn động, không có sự nồng cháy sướt mướt, nhưng lại thê lương và lay động lòng người đến mức ai nghe xong cũng phải bùi ngùi.
eyJzIjoxNiwiYyI6MTExMSwidSI6Imd1ZXN0IiwidCI6MTc2NzE5NjAwOCwiciI6IllBVFVqVXYzIn0="Tôi đề nghị để Đại cô và chú Bành mãi mãi ở bên nhau." Từ Lương, với tư cách là hậu duệ nhà họ Từ, có quyền đưa ra quyết định, và mọi người đều không phản đối.
Việc tìm kiếm hũ tro cốt của Bành Tú Chương có chút rắc rối vì nhà t·a·ng l·ễ đã di dời nhiều lần. Những hũ tro cốt không người thăm viếng, không người đóng phí gia hạn thường rất khó tìm tung tích. Việc khó cứ giao cho người trẻ tuổi, mấy mươi năm đã trôi qua, cũng chẳng vội vàng gì một chốc một lát.
Từ Lương bận rộn lo thủ tục sang tên nhà mới. Tiền bạc đầy đủ nên mua nhà không phải việc khó. Chủ nhà không ở địa phương nên ủy thác toàn bộ cho môi giới. Từ Lương cũng lười ra mặt, anh giao cho môi giới chạy hết các quy trình, bản thân chỉ cần đợi nhận chìa khóa.
Nhà mới có sẵn chỗ đậu xe, không mua ô tô thì thật phí. Nếu nhà đã mua, anh quyết định sắm luôn chiếc xe. Là một người trung niên hơi tụt hậu so với thời đại, anh không hứng thú với xe điện đang hot mà vẫn chung thủy với xe xăng truyền thống. Tuy có bằng lái từ lâu nhưng đã lâu không cầm vô lăng, anh chọn mua một chiếc BMW Series 3 cũ đã chạy được một ngàn km để luyện tay lái. Gã lái buôn khua môi múa mép bảo anh đi khắp thị trường cũng không tìm được chiếc nào mới hơn thế.
Dưới hầm xe khu Hương Tạ Lan Đình, chiếc BMW của Hàn Nghê sau khi đổi chủ, nay lại đỗ về đúng vị trí cũ.
Lý Khả Kiện báo tin mừng: Nhị cô vào khoảng năm 2000 đã đóng phí gia hạn 30 năm cho cả Đại cô và Bành Tú Chương, nên cả hai hũ tro cốt đều được bảo quản hoàn hảo!
Muốn hợp táng phải mua huyệt mộ, Từ Lương bỏ tiền chọn một mảnh đất đá cẩm thạch đen trên đỉnh đồi nghĩa trang Bành Thành. Vào một buổi sáng mưa phùn, mọi người tiễn đưa đôi tình nhân về nơi an nghỉ cuối cùng. Nghi thức giản dị, người thợ đặt hũ tro cốt vào trong mộ. Khi lấp tấm mộ bia cẩm thạch và trát xi măng, thợ bảo Từ Lương gọi ba tiếng: "Trốn đinh!", đây là hủ tục của người già, ngụ ý khi đóng nắp quan tài đừng để làm bị thương linh hồn người thân.
Mộ đã xây xong, gió trên đỉnh núi thổi mạnh. Nhìn ra xa là dãy núi xanh ngắt. Dưới tán ô, Từ Lương, Hàn Hiên, Lý Khả Kiện và Trương Vũ Ninh lặng lẽ đứng mặc niệm hồi lâu.
"Đại cô, chú Bành, hai người cuối cùng đã được ở bên nhau rồi." Từ Lương đặt bó hoa cúc trước mộ. Tấm bia khắc chữ mạ vàng lấp lánh tên tuổi và ngày mất của hai người.
Từ Lương làm sao biết được, ngược dòng thời gian 400 năm trước, vào ngày mùng 1 tháng 6 năm Thiên Khải thứ tư đời nhà Minh, bà Từ khi đó đang mang thai đã bưng bát đậu nành và cơm mạch ra sân, gọi các nam nhân vào dùng bữa. Bà Bành lấy ra một chiếc trâm phượng bằng tích và nói đùa với bà: "Nếu đứa nhỏ trong bụng em là con gái, chúng ta sẽ định ước làm thông gia."
"Anh bảo, liệu bà cố dưới suối vàng có biết không? Chắc bà vui lắm khi cuối cùng cũng được nằm cạnh người mình yêu." Vũ Ninh lau nước mắt, cô gái nhạy cảm này luôn dễ bị mủi lòng trước những cảnh tượng như vậy.
Lý Khả Kiện nói lẩm bẩm: "Tôi chỉ nghĩ, giá như họ có thể ở bên nhau khi còn sống thì tốt biết mấy."
Đúng vậy, với một số người, sống bên nhau là điều xa xỉ nhất. Giây phút này, Trương Vũ Ninh thực sự buông bỏ được quá khứ. So với bà cố, những đả kích cô vừa trải qua chẳng thấm tháp gì trước dòng chảy dài của đời người.
An táng xong, bốn người xuống núi, lên chiếc BMW mới của Từ Lương. Kỹ thuật lái của chú Từ không tốt nên đi chậm rì, cuối cùng bị một chiếc xe tải màu đỏ chở đầy hàng vượt qua.
Lão Bao lái chiếc xe tải màu đỏ yêu quý của mình trở lại Bành Thành. Tài xế xe tải coi bốn biển là nhà, bôn ba vạn dặm, nhưng quê hương mãi mãi là nơi thân thuộc nhất.
Hồi trước, lão Bao chuyên chở nông sản tươi sống để được đi "luồng xanh" miễn phí cao tốc. Nhưng lần trước chở đầy một xe ớt chỉ thiên, qua trạm thu phí bị bảo là ớt chỉ thiên không thuộc danh mục ớt cay nên không được miễn phí, cự cãi mãi vẫn phải nộp tiền. Lần khác chở trái cây, trạm thu phí bắt dỡ toàn bộ hàng xuống để kiểm tra xem có trộn hàng khác không. Một mình lão mất bốn tiếng đồng hồ dỡ hàng trăm thùng táo ra chứng minh, nhân viên thu phí nhìn qua một cái rồi thản nhiên bảo: "Được rồi, đi đi." Từ đó, lão Bao không bao giờ chở hàng nông sản nữa.
Lần này lão chở một xe đồ chơi. Sắp đến nơi mà điện thoại người nhận hàng gọi mãi không được. Lão đành đỗ xe nghỉ ngơi gần đó, thả ba con mèo ra chơi rồi tự nấu cơm ăn. Đôi khi lão cũng muốn có một người đàn bà bên cạnh cho ấm áp, nhưng nghĩ lại mình chẳng cho người ta được sự bảo đảm nào, nên thôi.
Cơm chín, lão gọi lại cho chủ hàng. Lần này có người nghe máy nhưng đáp lại lạnh lùng: "Lô hàng này tôi không lấy nữa." Lão Bao cuống quýt đứng bật dậy làm rơi cả muôi: "Thế còn tiền cước của tôi thì sao?"
"Hàng tôi bỏ, cho ông lấy đó bù tiền cước." Đối phương cúp máy rồi tắt nguồn luôn. Chuyện này lão không gặp lần đầu, trong giới tài xế cũng chẳng lạ gì, lão chỉ biết tự nhận xui xẻo. Mở thùng xe ra xem, lão dở khóc dở cười vì toàn là vịt vàng nhỏ – loại đồ chơi trẻ em thả bồn tắm, chẳng đáng mấy tiền, muốn bán lấy tiền mặt lại càng khó.
Màn đêm buông xuống, tiếng lá cây xào xạc, phía xa có tiếng nước chảy róc rách. Lão Bao băng qua đám cỏ dại cao ngang gối, thấy một dòng sông uốn lượn về phía đông, ánh trăng rọi xuống mặt nước đẹp vô cùng. Nếu Lý Bạch ở đây chắc sẽ làm một bài thơ, à mà không có rượu thì Lý Bạch cũng chịu. Thi nhân có cái lãng mạn của thi nhân, tài xế xe tải có cái lãng mạn của tài xế. Lão Bao ôm mấy thùng đồ chơi ra, tháo vỏ rồi "phóng sinh" đám vịt vàng xuống sông. Nhìn đàn vịt trôi xa, lão tự thấy hành động của mình thật kỳ quặc nhưng đã làm là làm cho trót, lão đổ sạch số vịt vàng xuống sông luôn.
Lão không biết rằng, hạ lưu dòng sông chính là đoạn Hoàng Hà cũ chảy qua nội thành Bành Thành.
Ngày hôm sau tại ga tàu cao tốc Bành Thành, một nhóm khách du lịch ba lô xuống tàu rồi đi tàu điện ngầm vào trung tâm. Họ đến trạm Quảng trường Bành Thành để gửi hành lý miễn phí – đây là một "bí kíp" du lịch Bành Thành trên mạng. Ban đầu chỉ là vài bạn trẻ thấy mang vali bất tiện nên cứ để bừa gần cửa ga tàu điện ngầm, không ngờ sau một ngày quay lại hành lý vẫn còn nguyên, thế là cư dân mạng đồn nhau Bành Thành dân phong thuần phác, không nhặt của rơi. Sau đó, phía tàu điện ngầm đã chủ động lập một khu vực gửi đồ cho du khách.
Nhóm khách tham quan Bảo tàng Thành dưới thành rồi đi bộ về phía bắc đến Công viên Hoàng Lâu. Dưới chân đền thờ Năm Tỉnh Đường Lớn, một cô gái chỉ tay xuống mặt sông hét lên: "Nhìn kìa!"
Một "quân đoàn" vịt vàng nhỏ mênh mông đang thong dong trôi trên sông, tạo nên một cảnh tượng kỳ thú. Du khách đua nhau chụp ảnh đăng vòng bạn bè, ai nấy đều thán phục sự lãng mạn của ngành du lịch Bành Thành. Tin tức này ngay lập tức lên xu hướng tìm kiếm.
Còn lão Bao đã lái chiếc xe tải đỏ tiếp tục hướng về phía nam, đích đến là Quý Châu.
Tiết đầu hạ thật hợp để đi chơi. Trương Vũ Ninh sau khi giải tỏa được nỗi lòng đã tham gia hoạt động tập thể do Điều độ trưởng Trần Duy tổ chức. Mục đích là để các nam thanh nữ tú độc thân trong tập thể giao lưu, tìm đối tượng.
Năm chiếc xe chở hai mươi người mang theo bộ đàm và lều trại đi về phía đông. Nắng đẹp, khí hậu ôn hòa, họ thay phiên nhau hát hò qua bộ đàm. Đến giờ trưa, Trần Duy ra lệnh tìm chỗ đẹp để cắm trại ăn ngoài trời. Lý Khả Kiện xung phong dẫn đường, chỗ này gần làng Tiểu Vương Trang nên anh rành nhất chỗ nào ngồi ăn là sướng.
Đoàn xe rẽ khỏi quốc lộ vào đường làng, bỗng nghe tiếng pháo nổ tưng bừng. Một chiếc cổng chào màu đỏ rực dựng ở đầu thôn, sân phơi thóc bày đầy bàn ghế, khách khứa đông nghịt. Hóa ra đang có đám cưới. Lý Khả Kiện nảy ra ý tưởng táo bạo, cầm bộ đàm hô hào mọi người vào "ăn chực cỗ".
Ăn chực cỗ ở quê nghĩa là khách không mời mà đến, cũng chẳng cần mừng tiền. Dù sao đám cưới dưới quê rất đông, chẳng ai phân biệt được đâu là khách nhà trai hay nhà gái. Đương nhiên đám thanh niên này không định ăn quỵt, họ gom một xấp tiền mừng lớn giao lên để được ăn "chính danh ngôn thuận".
Kết quả là cả hai bên đều vui vẻ. Đám cưới mà, càng đông càng xôm. Một mâm cỗ giá khoảng 240 tệ mà thu được phong bì tiền triệu thì chủ nhà lời to. Hai mươi đồng nghiệp bao trọn hai bàn, mỗi bàn hai bao thuốc, hai chai rượu trắng, thức ăn lên mười sáu món đủ loại: từ bò trộn hành, thịt đông, gà chạy bộ, giò hầm đến thịt viên Tứ Hỷ, cá chép kho tẩu, tai heo trộn dưa chuột, tôm luộc, sườn nấu ngô, ngó sen chiên, thịt sợi kinh tương, lòng xào cay, thịt kho tàu tảng lớn, canh cừu, canh viên trắng, canh chua nấm kim châm.
Đầu bếp làm việc ngay ngoài trời, đổ nguyên liệu vào chảo gang lớn, dùng xẻng xào nấu rộn ràng. Đám trẻ thành phố bận chụp ảnh đến nỗi quên cả ăn. Mấy chú chó trong thôn chạy tung tăng dưới gầm bàn, tuân thủ đúng luật lệ của giới loài chó: thứ gì rơi xuống đất mới là của mình.
Hoạt động này thú vị hơn hẳn việc ngồi ăn đồ nguội ở lều trại. Trương Vũ Ninh để ý thấy một lão ông ngồi lẻ loi một bàn, dù nhiều người đến kính rượu nhưng không ai ngồi cùng bàn với cụ. Cô hỏi Khả Kiện thì được biết đó là ông nội của Vương Binh – cụ Vương Quý Đường, một trong những người cao niên nhất làng.
Trần Duy cũng là kẻ ưa chuyện, rủ mọi người sang kính rượu cụ. Cụ mời họ ngồi xuống ăn cùng, thế là anh chàng này ngồi luôn, rồi bắt chuyện với cụ không dứt. Hóa ra Trần Duy muốn hỏi cụ về những ký ức trong chiến dịch Hoài Hải, không ngờ câu chuyện của cụ lại hé mở cái chết cuối cùng của ông nội anh. Đây là phần tiếp theo của câu chuyện mà Thành Phong đã kể.
Cụ Vương uống chút rượu nên hứng khởi kể: "Năm chiến dịch Hoài Hải tôi mới là đứa trẻ, sau trận đánh làng tôi cử người ra giúp dọn chiến trường, chủ yếu là chôn xác người. Một lao động được trả mười cân gạo nên tôi đi theo. Đến giờ vẫn nhớ có lần liệm một vị tướng quân, mặc quân phục dạ xanh lục, trên vai có một ngôi sao vàng, ngực đeo huân chương rực rỡ, giày da bóng lộn, bên cạnh toàn là giấy vụn."
"Lính ch·ết thì đào hố chôn chung, nhưng làm quan thì khác. Xác được đưa về làng tôi, đặt trên giường xếp để một đêm. Tôi và hai người chú trông coi vì sợ chó hoang quấy phá. Ban ngày có mấy sĩ quan tham mưu đến kiểm tra danh tính, bảo vị tướng này từng đánh Nhật nên phải hậu táng. Họ bỏ ra 450 cân gạo mua của nhà tôi một chiếc quan tài gỗ trắng chưa sơn, rồi tìm một bộ quân phục dạ mới. Họ bảo chúng tôi tắm rửa, thay đồ cho thi thể. Tôi nhớ trên người vị tướng đó có bảy vết đạn, chắc là bị súng Tiệp Khắc bắn."
Trần Duy nén xúc động hỏi mộ vị tướng đó giờ ở đâu.
"Chôn ở bãi tha ma đầu phía tây làng, chỗ hay bỏ trẻ con ch·ết yểu ấy. Hồi đó còn dựng bia gỗ, nhưng mấy năm sau đất đai được san bằng làm lò gạch nên bãi tha ma mất dấu rồi." Cụ Vương chìm vào hồi ức: "Lúc chôn, vì tôi còn nhỏ nên mọi người trêu bảo tôi làm 'con hiếu', đội cái mũ tang lên đầu tôi."
Trần Duy hỏi chiếc giường xếp đó còn không. Cụ bảo thời đó nghèo, chẳng ai chê giường người ch·ết từng nằm, có nhà lấy về dùng đến tận những năm 60 mới hỏng, giờ không tìm thấy nữa.
"Nhưng mấy tờ giấy vụn năm đó tôi vẫn giữ, chữ viết đẹp lắm." Cụ già nói.
"Cháu muốn xem ạ." Hơi thở Trần Duy trở nên dồn dập.
Sau bữa cỗ, cụ Vương dẫn Trần Duy về nhà, lấy ra một xấp giấy từ trong tủ bếp. Những trang giấy ố vàng, nét chữ cứng cáp, quả thực rất giống bút tích của ông nội Trần Đình Huy. Nhưng đây không phải bản gốc mà là bản cụ Vương đã chép lại. Bản gốc là những lá thư viết cho người thân, những bài thơ viết cho tình nhân, là khúc ca bi phúng cho thời đại đó.
Trần Duy quỳ xuống, tha thiết xin mua lại những trang giấy đó với bất cứ giá nào. Cụ Vương nhìn kỹ Trần Duy rồi bảo: "Không bán, cậu muốn thì tôi tặng."
"Hậu duệ tướng quân tìm đến, cái này gọi là vật quy nguyên chủ, sao có thể lấy tiền." Cụ già nói.